Các loại con mồi Con_mồi

Của chim săn mồi

Con mồi của loài đại bàng rừng châu Phi rất phong phú và đa dạng. Thức ăn chính của chúng là động vật có vú với con mồi điển hình có khối lượng 1–5 kg tương đương với trọng lượng con mồi của đại bàng martial hoặc đại bàng đen, đây là trọng lượng của con mồi là chuột lang hyrax, trong các khu rừng nhiệt đới tại Vườn quốc gia Bờ Biển Ngà, trọng lượng con mồi trung bình ước tính của đại bàng rừng châu Phi là cao hơn 5,67 kg, chúng là loài chim săn mồi hiện sống duy nhất thường xuyên tấn công con mồi có trọng lượng vượt quá 9 kg. Linh dương Bushbuck (Tragelaphus scriptus) hoàn toàn trưởng thành là con mồi lớn nhất được biết của đại bàng rừng châu Phi. Chúng có thể nâng một khối lượng lớn hơn khối lượng cơ thể của mình trong khi bay.

Đại bàng rừng châu Phi là một trong số ít những loài chim săn mồi có khả năng săn bắt được khỉ trưởng thành. Nhóm ưa thích trong chế độ ăn uống của chúng là các loài khỉ thuộc chi Cercopithecus, khỉ đuôi đỏ (Cercopithecus ascanius) là con mồi điển hình. Con mồi có thể là các loài khỉ khác, chẳng hạn như các loài Piliocolobus badius, Colobus guereza, Lophocebus albigena, Cercopithecus mitis, C. Wolfi, C. Diana, C. campbelli, C. petaurista, Procolobus verusColobus polykomos. Tất cả các con khỉ châu Phi hoạt động ban ngày nặng vượt quá 2 kg ở tuổi trưởng thành. Khỉ cái Cercopithecus có thể dao động trong khoảng 2,7-4,26 kg (6,0-9,4 lb) và khỉ đực 4,1-6,9 kg tùy thuộc vào loài. Như khỉ mangabey và khỉ colobus cân nặng vượt quá 5 kg lúc trưởng thành. Những con khỉ có trọng lượng lên đến 10–15 kg cũng có thể bị bắt. Đôi khi đại bàng rừng châu Phi có thể bắt các con khỉ đầu chó non hoặc khỉ cái trưởng thành và các loài tương tự, như Khỉ đầu chó vàng, Khỉ đầu chó olive (Papio Anubis), Khỉ đầu chó Chacma (P. Ursinus), Khỉ đầu chó Drill (Mandrillus leucophaeus) và Mandrills (M. sphinx). Động vật linh trưởng châu Phi có trọng lượng dưới 2 kg, gần như hoàn toàn sống trên cây và ăn đêm, có thể thỉnh thoảng cũng bị săn bắt.

Chuột, con mồi của nhiều loài chim ăn thịt

Bên ngoài của các khu rừng nhiệt đới, chế độ ăn uống của đại bàng rừng châu Phi có xu hướng đa dạng hơn, gồm cả linh dương và chuột lang hydrax. Các con mồi linh dương chủ yếu là các loài linh dương nhỏ như linh dương Suni (Neotragus moschatus), nặng khoảng 5 kg (11 lb) hoặc thấp hơn một chút, chẳng hạn như dik-dik (Madoqua kirkii) và Duiker xanh (Philantomba monticola). Linh dương lớn hơn, thường nặng khoảng 10 kg, có thể bị tấn công (chủ yếu là con non), bao gồm klipspringer (Oreotragus oreotragus), steenbok (Raphicerus campestris), grysbok sharpe (R. Sharpei) và duikers nhỏ, đặc biệt là Duiker đỏ (Cephalophus natalensis). Trong số các loài linh dương lớn hơn có thể bị săn lùng, chẳng hạn như Bushbuck, linh dương Thomson (Eudorcas thomsonii), rhebok xám (Pelea capreolus) và Impala (Aepyceros melampus), thường là con non và đôi khi là con cái trưởng thành. Các loài duikers lớn nhất đã bị giết chết nặng khoảng 20 kg, và con mồi đặc biệt có thể lên đến 30 kg.

Tất cả bốn loài chuột lang hyrax cũng bị săn bắt bởi đại bàng rừng châu Phi. Động vật có vú khác đã được ghi nhận như con mồi cơ hội, trong đó có dơi, thỏ rừng (Lepus sp.), chuột nhảy (Pedetes sp.), chuột mía(Thryonomys sp.), sóc mặt trời (Heliosciurus sp.) Và chuột chù voi Bốn ngón (Petrodromus tetradactylus), nhím Cape nhỏ(Hystrix africaeaustralis). Những động vật có vú các loại, thường nhỏ hơn so với các loài linh trưởng và động vật móng guốc, thường bị săn khi nhóm con mồi ưa thích tại địa phương là khan hiếm. Động vật ăn thịt có vú đôi khi cũng bị săn bắt, từ loại nhỏ hơn như cầy Mongoose (Mungos mungo), cầy cusimanses, cầy hương châu Phi (Nandinia binotata) hoặc cầy genets đến các loại lớn như chó rừng lưng đen (Canis mesomelas) hoặc Cầy giông châu Phi (Civettictis Civetta). Đại bàng rừng châu Phi săn bắn chim lớn khi động vật có vú khan hiếm, nhưng ở Nam Phi chúng cũng là một thành phần khá phổ biến trong chế độ ăn uống.

Chim mồi có thể bao gồm cò quăm, gà francolins, gà ibis, chim bồ câu, đà điểu non(Struthio camelus) và con non của diệc và cò. Các loài chim mỏ sừng cũng là con mồi điển hình như Hồng hoàng mũ đen (Ceratogymna atrata). Thậm chí cả Cò già Marabou (Leptoptilos crumeniferus) cũng bị săn bắt. Ở Kenya, rắn, bao gồm cả rắn độc, cũng được bổ sung vào chế độ ăn uống. Kỳ đà cũng có thể bị ăn thịt, kể cả những loài lớn nhất châu Phi, như kỳ đà sông Nile (Varanus niloticus) và kỳ đà đá (V. albigularis). Các vật nuôi, bao gồm (Gallus gallus domesticus), gà tây (Meleagris gallopavo), mèo (Felis catus), chó nhỏ (Canis lupus Familiaris), lợn nhỏ (Sus scrofa domesticus), cừu (Ovis Aries), (Capra aegagrus hircus), cũng trở thành con mồi khi con mồi tự nhiên bị cạn kiệt.

Hầu hết các con mồi của đại bàng đuôi nhọn bị bắt trên mặt đất và ít hơn trong không trung. Kể từ khi người châu Âu đưa các loài thỏ đến châu Úc, chúng đã trở thành con mồi chủ yếu trong chế độ ăn uống của con đại bàng đuôi nhọn trong nhiều khu vực. Động vật có vú lớn hơn được đưa tới như cáo và mèo hoang đôi khi cũng bị bắt, trong khi động vật bản địa như kanguru wallaby, kanguru nhỏ, thú có túi possum, gấu túi koala và chuột túi bandicoot cũng bị săn bắt. Trong một số khu vực, các loài chim như vẹt mào, vịt, quạ, cò quăm và thậm chí đà điểu Emu cũng là con mồi thường xuyên. Chúng ít khi ăn bò sát, tuy nhiên chúng cũng săn rồng Autralia, kỳ đà và rắn nâu. Đôi khi có thể săn kanguru đỏ lớn, hoặc đẩy dê rơi ra khỏi sườn đồi dốc và bị thương, sau đó giết nó. Xác chết cúng là một nguồn thức ăn quan trọng. Chúng có thể phát hiện các hoạt động của quạ Autralia là quạ xung quanh một xác chết từ một khoảng cách lớn, và lao xuống để chiếm nó. Chúng thường thấy bên lề đường ở vùng nông thôn Úc, ăn động vật đã bị chết do tai nạn giao thông.

Hầu hết các con mồi của đại bàng mào dàiđộng vật gặm nhấm, như chuột răng khía, chuột mía lớn, chuột nước, chuột cỏ bốn sọc, và có thể chiếm đến 98% trong chế độ ăn uống. Những con mồi khác bao gồm chim nhỏ, thằn lằn, động vật chân đốt và cá, và cả thức ăn có nguồn gốc thực vật. Các con mồi này gồm có cú gỗ châu Phi, gà Phi, bìm bịp, ó đen, gà, rắn, thằn lằn, ếch nhái, cá hồi, bọ cánh cứng, cào cào, châu chấu, rết và cua. Bông chanh dải chàm Loài chim này ăn cá và các loài côn trùng thủy sinh. Nó đậu trên đá và cành cây vươn ra và lặn thẳng đứng xuống nước để bắt con mồi. Khi bắt được con mồi, nó tha lên nơi đậu để mổ và nuối con mồi. Kền kền Kền kền ít khi tấn công một con thú khỏe mạnh nhưng có thể giết chết những con bị thương hay bị bệnh, Chúng nuốt ngấu nghiến thức ăn khi thức ăn còn thừa thãi cho đến lúc diều căng phồng và ngồi xuống và ngủ hoặc gật gù như ngủ để tiêu hóa thức ăn. Chúng không tha thức ăn cho những con chim non của chúng mà ọe ra từ diều để nuôi con. Loài chim này giúp làm sạch môi trường, đặc biệt là ở những xứ nóng.

Spizaetus isidori săn một loạt các động vật có vú như sóc, khỉ sóc, nhím, gấu mèo coati và các loài động vật có vú cỡ trung bình sống trên cây khác. Chúng cũng săn bắt các loài chim như gà Mỹ. Cắt cười chủ yếu bắt các loài rắn, bao gồm cả những loài rắn độc như rắn san hô, thằn lằn, và ít khi bắt hơn, động vật gặm nhấm nhỏ, dơi và rết. Cắt cười đâm bổ vào con mồi của nó lúc đang bay, sau đó mổ vào phía sau đầu con mồi, đôi khi nghiến đứt đầu con mồi trong quá trình vồ bắt. Nó tha thức ăn lên cành cây và ăn. Nó có thể tha những con rắn nhỏ trong mỏ và nuốt con mồi từ đuôi, đối với con rắn lớn loài chim cắt cười này kẹp bằng móng vuốt với đầu con mồi hướng về phía trước, sau đó xé con mồi thành mảnh. Chim hù săn mồi chủ yếu về đêm, hầu hết con mồi là các động vật có vú nhỏ, chim và bò sát. Các loài cú diều nhỏ ăn chủ yếu sâu bọ và động vật có xương sống nhỏ, trong khi những loài lớn nhất như "Cú vọ lực sĩ" có thể bắt những con mồi lớn hơn như thú túi Possum, gấu Koala.

Họ mèo

Họ nhà mèo có hệ thống con mồi phong phú, Thức ăn của hổ chủ yếu là các động vật ăn cỏ cỡ trung bình như hươu, nai, lợn rừng, trâu, thịt người không phải là món ăn hạp khẩu vị của hổ, mà là các loài thú có guốc như nai, hoẳng, mển, sơn dương, heo rừng… đôi khi bắt cả chim, bò sát, ếch nhái để ăn. Chúng có nhu cầu tiêu thụ thức ăn hàng ngày rất lớn, ước tính trung bình mỗi năm, một con hổ cần săn được 50 con hươu nai hoặc lợn rừng để cung cấp đủ nguồn thực phẩm cho sự tồn tại của chúng. Con mồi ưa thích của hồ thường là nai, trâu, lợn rừng... Hổ Bengal thường săn hươu, nai hay các con vật nặng trên 45 kg (100 lb), nhưng khi quá đói, chúng có thể ăn thịt bất kỳ con vật nào có thể ăn được, từ ếch nhái, , vịt, cá sấu và cả con người. Những chỗ cỏ tranh mọc lên quá đầu người là nơi nai thường xuyên tụ tập vì tranh non là thức ăn khoái khẩu của nai, hoẵng những là con mồi ưa thích và thường xuyên của hổ, khi đêm về, nai kéo nhau ra các bãi tranh ăn cũng là khi hổ xuất hiện rình mồi.

Một con hổ đang bắt một con linh dương mặt trắng

Con mồi của sư tử bao gồm ngựa vằn, trâu rừng châu Phi, hươu cao cổ, hà mã trưởng thành, và thậm chí là voi châu Phi gần trưởng thành, mặc dù voi trưởng thành là quá nguy hiểm cho chúng khi chúng muốn đấu sức với nó. Khi đơn lẻ, nói chung chúng dễ dàng săn các con mồi nhỏ hơn chúng, bao gồm linh dương châu Phi (Connochaetes), linh dương (họ Bovidae), Linh dương Gazellelợn rừng (Phacochoerus africanus). Những con sư tử sống gần bờ biển còn ăn thịt cả hải cẩu.

Báo đốm thì bắt hươu, nai và lợn pêcari, thậm chí là cá sấu nhưng chúng là những kẻ cơ hội và sẽ ăn mọi thứ từ ếch, nhái đến chuột hay chim, cá cũng như thú nuôi trong gia đình. Báo hoa mai Chúng leo trèo rất tốt và thông thường hay giấu con mồi săn được ở trên cây. Báo hoa mai là những thú ăn thịt có thể săn bắt nhiều chủng loại con mồi hơn bất kỳ các loài mèo lớn nào khác với kĩ năng săn mồi điêu luyện, chúng có thể ăn côn trùng, thú gặm nhấm, cá và những thú lớn như linh dương. Báo hoa mai thậm chí săn cả chó, mà chó cũng là những kẻ ăn thịt ghê gớm, những người nuôi chó trong những vùng có báo hoa mai thường khôn ngoan giữ chúng trong các cũi để đảm bảo an toàn cho chúng vì báo hoa mai được biết như là những kẻ thèm thịt chó. Báo tuyết là loài thú ăn tạp, chúng ăn tất cả những thức ăn gì mà chúng tìm thấy; thông thường chúng có thể giết chết cả những con vật có kích thước gấp 3 lần chúng, bao gồm cả gia súc. Chúng cũng phục kích các con mồi nói trên khi có thể. Thức ăn của chúng bao gồm sơn dương (các loài thuộc chi Capra), cừu hoang Himalaya (Pseudois nayaur), cũng như là mác mốt (các loài thuộc chi Marmota) và các động vật gặm nhấm nhỏ khác.

Đối với báo săn, Chế độ ăn uống của một con báo phụ thuộc vào khu vực mà nó sống. Đây là một loài động vật ăn thịt tươi sống với con mồi săn khoảng dưới 40 kg (88 lb) gồm những loài linh dương cỡ nhỏ như Linh dương Thomson, linh dương nhảy, linh dương Grant, linh dương Gazelle, linh dương Impala và những con Linh dương đầu bòngựa vằn còn non, đối với những con trưởng thành thuộc loại này thì loài báo thường săn theo nhóm 2 đến ba con mới có thể khống chế được đưa lên và người lớn quá, khi loài báo săn theo nhóm. Ngoài ra các động vật nhỏ hơn như thỏ đồng, gà Phi cũng là con mồi ưa thích của báo săn, còn các động vật khác như đà điểu, lợn nanh sừng châu Phi,[10] chim hoặc sơn dương. Tuy vậy, con mồi ưa thích của nó vẫn là linh dương Thomson. Loài Linh dương nhỏ này có kích thước nhỏ hơn và chậm hơn so với con báo săn, mà làm cho nó một con mồi thích hợp. Cuộc rượt đuổi giữa báo săn và linh dương Thomson luôn gay cấn hấp dẫn và là những cuộc đua của sự sinh tử trong đó hai bên đều có những lợi thế riêng. Thường là linh dương Thomson hay một con heo rừng là đủ cung cấp năng lượng cho một con báo săn no bữa. Đối với những con linh dương trưởng thành có thể cung cấp cho báo săn no bữa được khoảng từ 1-2 ngày. Sau khi đi săn xong, chúng sẽ đem xác con mồi về cất giấu ở một nơi nào đó ăn dần. Việc săn những con linh dương nhỏ sẽ cung cấp ít calo hơn và không thể duy trì lâu nhưng con linh dương trưởng thành với hơn 60 kg sẽ cung cấp nhiều hơn thức ăn cho báo săn.

Loài Linh miêu săn các loại thức ăn động vật khác nhau, có thể to lớn tới như tuần lộc, hoẵng, sơn dương, nhưng thông thường là chim, thú nhỏ, cá, cừu hay dê. Mặc dù loài Linh miêu đuôi cộc thích ăn thịt thỏ nhà và thỏ rừng, nó sẽ săn bất cứ con mồi nào từ côn trùng và loài gặm nhấm nhỏ đến loài lớn hơn như hươu. Lựa chọn con mồi phụ thuộc vào vị trí và môi trường sống, mùa, và sự phong phú của loại mồi. Mèo rừng chủ yếu ăn thịt, côn trùng và thực vật chỉ là một phần nhỏ trong chế độ ăn uống của nó. Bất kể phân loài, các con mồi của nó bao gồm: động vật có vú nhỏ, thú gặm nhấm và thỏ, ngoài ra còn có Thằn lằn xám (ở Bồ Đào Nha) và một số loài chim. Tuy nhiên, các nhà khoa học thấy rằng nó còn ăn cả những động vật lưỡng cư, cá, bò cạp, nai con và linh dương con.

Do kích thước nhỏ, mèo chân đen chủ yếu săn các loài thú gặm nhấm hay các loài chim nhỏ, nhưng cũng có thể tấn công cả những con chim ôtit cánh trắngthỏ đất mũi - đáng chú ý là loài thỏ đất mũi có kích thước lớn hơn mèo rất nhiều. Côn trùngnhện đóng góp chưa tới 1% trong tổng số nguồn thức ăn của chúng.[11][12] Mèo chân đen là những kẻ săn mồi rất tích cực, chúng có thể săn bắt được đến 14 con mồi (kích thước nhỏ) chỉ trong vòng một đêm. Nhu cầu năng lượng của chúng rất lớn, nếu quy ra khối lượng thịt tiêu thụ thì vào khoảng 250 gam (9 oz) trong vòng một đêm, chiếm 1/6 tổng khối lượng cơ thể của chúng. Mèo chân đen không tấn công theo kiểu rình và vồ mồi, thay vào đó chúng lặng lẽ tiếp cận con mồi rồi tung đòn quyết định, dựa vào bóng đêm để che giấu hành tung của chúng. Theo các quan sát, mèo chân đen sử dụng việc di chuyển cực nhanh để trục con mồi ra khỏi nơi ẩn náu hoặc bí mật tiếp cận con mồi bằng cách lặng lẽ đi qua các bụi rậm um tùm. Một phương pháp ít áp dụng hơn là phục sẵn phía ngoài hang ổ của con mồi - thường là với đôi mắt nhắm nhưng luôn cảnh giác trước bất cứ tiếng động lạ nào. Mèo chân đen có một tập tính khá giống với các loài mèo lớn (nhưng khác với các loài mèo còn lại) đó là cất giấu con mồi vào một chỗ kín đáo nhằm "để dành" chứ không ăn ngay.

Mèo túi chủ yếu ăn thịt, các loài nhỏ hơn chủ yếu ăn côn trùng, chim, ếch nhái, thằn lằn và trái cây, các loài lớn hơn ăn thịt chim, bò sát, và các động vật có vú, bao gồm cả thú lông nhím và thú có túi. Chế độ ăn uống của Mèo túi hổ chủ yếu là động vật có vú như thú có túi, thỏ và thỏ rừng. Thức ăn có thể thay đổi tùy thuộc vào sự sẵn có của con mồi như sau khi cháy rừng, có thể bao gồm xác thối. Chúng săn mồi bằng cách rình mồi. Tùy thuộc vào kích thước của con mồi, mèo túi có thể nhảy hoặc vồ xuống con mồi. Với con mồi nhỏ chúng giữ trong bàn chân bằng móng vuốt, còn con mồi lớn hơn chúng nhảy lên, giữ chặt con mồi bằng móng vuốt và cắn vào cổ. Mèo túi có thể lấy lượng nước cần thiết từ thức ăn, giúp nó khá thích nghi trong thời gian hạn hán hoặc thiếu nước.

Của họ chó

Cáo những kẻ kiếm ăn cơ hội, săn bắt các con mồi sống (đặc biệt là động vật gặm nhấm nhỏ). Sử dụng kỹ thuật tấn công kiểu chộp được thực hiện từ khi chúng còn non, chúng có khả năng giết chết con mồi rất nhanh. Cáo cũng ăn các loại thức ăn khác, từ châu chấu tới hoa quả và các loại quả mọng. Cáo Bắc cực nhìn chung ăn bất kỳ động vật nhỏ có thể tìm thấy như chuột lemming, chuột đồng, thỏ, cú, trứng, carrion, vv. Chuột Lemming là con mồi phổ biến nhất. Một gia đình cáo có thể ăn hàng chục con chuột Lemming mỗi ngày. Trong tháng Tư và tháng Năm con cáo Bắc cực cũng săn hải cẩu Pusa hispida con khi các con vật được giới hạn trong một hang tuyết và tương đối bất lực. Cá dưới băng cũng là một phần của chế độ ăn uống của nó. Chúng cũng tiêu thụ quả và rong biển và do đó có thể được coi là loài ăn tạp. Nó là một thợ săn đáng kể đối với trứng chim, ngoại trừ những con chim lớn nhất vùng lãnh nguyên. Cáo tai to châu Phi chủ yếu ăn côn trùng, động vật có vú nhỏ, và các loài chim, thính giác của nó khá nhạy bén có thể nghe con mồi di chuyển dưới lòng đất. Cáo tai dơi là loài ăn sâu bọ, chúng sử dụng đôi tai lớn của mình để xác định vị trí con mồi của nó. 80-90% khẩu phần ăn uống của chúng là loài mối Hodotermes mossambicus. Khi loài mối này không có thì nó ăn các loài mối khác và cũng ăn bọ cánh cứng, dế​​, châu chấu, rết, sâu bướm, bọ cạp, nhện, và hiếm khi các loài chim, động vật có vú nhỏ, và các loài bò sát. Những con côn trùng mà chúng ăn cung cấp phần lớn nhu cầu nước.

Giống như các loài sói khác, sói Bắc Cực săn mồi theo nhóm, mục tiêu chủ yếu của chúng là các con tuần lộc và bò xạ, tuy nhiên thỏ Bắc Cực, hải cẩu, gà gô trắng xám đá, lemmut và chim nước cũng nằm trong danh sách nạn nhân của chúng. Khi săn bắt các loài gặm nhấm, sói Bắc Cực phải lần mò theo dấu vết mùi của con mồi và tìm lối vào hang của nó nhằm trục con mồi ra khỏi hang. Sói Bắc Cực gần như không bao giờ tấn công con người. Do số lượng mồi trong vùng cực không nhiều, sói Bắc Cực phải "càn quét" trên một khu vực rộng lớn (có khi lên tới 2.600 km2 (1.000 sq mi)) và phải bám theo các đàn tuần lộc di cư vào phương Nam trong mùa đông để tìm kiếm thức ăn. Chúng không phải là con vật chạy nhanh nhưng sở hữu sức bền và độ dẻo dai cực kì tốt, vì vậy chiến thuật của chúng là chạy đuổi riết theo con mồi cho đến khi con mồi kiệt sức và gục ngã. Chúng nuốt chửng từng miếng thức ăn lớn và hiếm khi nhai, đồng thời chúng ăn sạch sành sanh cả thịt lẫn xương của con mồi. Chó sói Bắc Cực có thể tiêu thụ tới 20 pound (9 kg) thịt trong một bữa ăn. Tuy nhiên, đối với các con sói cha mẹ, một phần trong số thịt này không được tiêu hóa mà được để dành cho các con non.

Cừu, con mồi của sói đồng cỏ

Chó sói đồng cỏ là loài ăn tạp, thông thường chúng ăn thịt song đôi khi chúng cũng bổ sung khẩu phần của mình bằng những loại thực vật khác nhau. Con mồi thường xuyên của chó sói đồng cỏ là các loài gặm nhấm như thỏ, chuột đồng,[13] sóc và các loài như gà gô, đôi khi cả hoẵngcáo, mặc dù vậy, thức ăn ưa thích của chúng là cừu hoặc thỏ.[14] Ngoài ra thì chúng còn là động vật ăn xác thối khi di chuyển theo những đàn hươu đói để chờ những cá thể chết dọc đường để ăn xác thối. Một số con sói già yếu, bệnh hoạn còn tấn công vào những đàn gia súc của con người. Ở Mỹ, những con chó sói đồng cỏ góp phần làm kiềm chế sự phát triển của loài ngỗng trời tại Canada bằng cách chúng ăn các quả trứng ngỗng, đồng thời sói đồng cỏ còn có tác dụng tiêu diệt một phần các loài gặm nhấm.

Sói đỏ là động vật ăn thịt tươi sống thật sự. Thức ăn của loài sói đỏ là các loài động vật như nai, hươu, hoẵng, lợn rừng, gia súc, vật nuôi và các loài chim lớn, gia cầm v.v. Nhiều khi loài sói này còn tấn công vào các bản làng để kiếm thức ăn, chúng tấn công vào cả trâu, , lợn, , , ngựa.[14][15] Tuy vậy thịt người không phải món ưa thích của loài này. Cả một đàn sói đỏ lại là mối đe dọa khủng khiếp với nhiều loài thú lớn như lợn rừng, bò tót…[16] hàm răng của sói lửa lúc này hơn cả dao cạo, xé đứt cả da trâu, da bò.

Ở một số vùng có sự phân bố chồng lấn giữa sói lửa với hổbáo, thì có sự cạnh tranh sinh tồn quyềt liệt và những cuộc chiến xảy ra giữa hai loài này. Sự cạnh tranh giữa những loài này có thể tránh được thông qua sự khác biệt trong việc lựa chọn con mồi săn, mặc dù vẫn còn chồng chéo đáng kể về chế độ ăn.[17] Cùng với báo hoa mai, chó sói lửa thường lựa bắt các loại động vật được trong khoảng từ 30–175 kg (trọng lượng trung bình khoảng 35,3 kg đối với sói lửa và 23,4 kg đối với báo), trong khi con hổ thì lựa chọn cho con mồi nặng hơn khoảng 176 kg.[18] Ngoài ra, các đặc điểm khác của con mồi, chẳng hạn như quan hệ tình dục, hay tính gây hấn, có thể đóng một vai trò trong việc lựa chọn con mồi của mỗi loài, ví dụ, sói lửa ưu tiên chọn những con hươu đực, trong khi báo hoa mai giết cả hai, sói lửa và hổ ít khi giết voọc so với báo hoa mai do báo có khả năng leo trèo, trong khi báo hoa mai không thường xuyên chọn giết chết lợn rừng vì kích thước, khối lượng của báo tương đối nhẹ để có tiêu diệt gọn con mồi có trọng lượng tương đương và cứng đầu này.

Một trong những con mồi của loài chồn sương là thỏ, và chúng thường bắt thỏ bằng cách đặt bẩy. Để bắt được con mồi, chồn sương, khi phát hiện con thỏ từ xa, chồn sương lăn lộn, co giật, nhảy múa liên tục giống như một con vật bị đốt, hay một con thú hóa điên. Hành động kỳ lạ của chuột hương thu hút sự chú ý của thỏ, khiến chúng nhầm tưởng và mất cảnh giác. Con thỏ không biết rằng con chồn đã tới gần và nó sẽ nhảy chồm lên và cắn chết thỏ để ăn thịt thỏ.

Của họ Gấu

Gấu nâu các động vật có vú loại nhỏ như thỏ, sóc, chồn, chim. Tuy nhiên, chúng cũng đôi khi tấn công cả động vật lớn như nai sừng tấm, tuần lộc, cừu núi và bò rừng Bizon dù vậy gấu nâu ăn chủ yếu là thực vật, chiếm tới 75% năng lượng từ thức ăn của chúng. Con mồi chính của gấu Bắc Cực là hải cẩu không có loài động vật này, gấu Bắc Cực khó có thể tồn tại những con hải cẩu với tấm thân no tròn căng bóng nhưng những cây xúc xích di động gây ra sự thèm thuồng cho gấu. Về mùa xuân, chúng săn hải cẩu vòng mới đẻ, về mùa hè, chúng săn hải cẩu râu, hải cẩu đầu chỏm. Các loại mồi khác bao gồm cá heo trắng, voi biển và động vật gặm nhấm. Là một loài động vật ăn thịt thuần túy, chủ yếu là cá, chúng còn ăn cả chuột lemming.

Gấu ngựa thì ăn thịt (cá, chim, động vật gặm nhấm cũng như các động vật có vú nhỏ hay xác súc vật). Thức ăn của gấu chó dao động rất rộng và bao gồm các động vật có xương sống nhỏ như thằn lằn, chim, hay các loài động vật có vú khác. Con mồi ưa thích của gấu xám Bắc Mỹ bao gồm cá hồi, chồn, chim, thỏ rừng và sóc. Dù thường ăn thú nhỏ, gấu xám có thể tấn công những động vật cỡ trung bình tới lớn như cừu núi Bắc Mỹ, nai sừng tấm, tuần lộc, dê núi, bò xạ hương, bò rừng bizon, dù gấu xám có nhiều con mồi để săn nhưng chúng thường bắt cá hồi để ăn. Gấu bốn mắt thì ăn côn trùng, động vật gặm nhấm và xác chết thối.

Gấu đen Bắc Mỹ cũng thường xuyên săn hươu đuôi đen và hươu đuôi trắng vào mùa xuân khi có cơ hội, chúng cũng được ghi nhận đã săn bê con của hươu Bắc Mỹ ở Idaho và bê con của nai sừng tấm ở Alaska. Gấu đen ăn thịt hươu trưởng thành là rất hiếm nhưng đã được ghi lại. Chúng thậm chí có thể săn con mồi lên đến kích thước của con nai sừng tấm cái trưởng thành, lớn hơn đáng kể so với chúng, bằng cách phục kích. Có ít nhất một báo cáo rằng một con gấu đen đực giết chết hai con hươu Bắc Mỹ trong suốt sáu ngày bằng cách đuổi chúng vào hố tuyết sâu nơi mà sự di chuyển của chúng bị cản trở. Tại Labrador, gấu đen đặc biệt ăn thịt, sống chủ yếu nhờ vào tuần lộc, thường là con ốm yếu, con non hay sắp chết, và các loài gặm nhấm như chuột đồng. Điều này được cho là do số lượng ít ỏi của các loại thực vật ăn được trong khu vực phụ cận Bắc cực này và thiếu động vật ăn thịt địa phương lớn cạnh tranh (bao gồm các loài gấu khác).Giống như loài gấu nâu, gấu đen cố gắng sử dụng việc phục kích bất ngờ của mình với con mồi và nhắm mục tiêu vào các động vật ốm yếu trong đàn. Khi một con hươu bị bắt, gấu đen thường xé xác con mồi sống trong khi ăn.

Của bò sát

Một con chuột bị ăn bởi một con thằn lằn

Thức ăn của Cá sấu khá đa dạng, chủ yếu là động vật có vú sống hay đã chết cũng như . Những con cá sấu sơ sinh ăn côn trùng và các loài động vật không xương sống nhỏ dưới nước, và nhanh chóng thích nghi với các thức ăn từ động vật lưỡng cư, bò sát và chim. Tuy nhiên, 70% thức ăn của cá sấu sông là cá, mặc dù những con cá sấu lớn có khả năng ăn thịt gần như bất kỳ động vật có xương sống nào khi chúng đi uống nước, ngoại trừ chỉ có voi và hà mã trưởng thành. Chúng cũng ăn thịt ngựa vằn, hà mã non, trâu, linh dương như gnu, và thậm chí cả các động vật lớn thuộc họ Mèo và các con cá sấu khác.

Con mồi chính của cá sấu Mỹ là cá, hầu như bất kỳ loài cá nào được tìm thấy ở nước ngọt thông qua môi trường sống nước mặn ven biển đều có thể là con mồi. Ở Florida, cá vược, cá cháo lớn và đặc biệt là cá đối dường như là con mồi chính.[19] Mõm của cá sấu Mỹ rộng hơn so với một vài loài cá sấu chuyên ăn cá (như cá sấu Ấn Độ, cá sấu mũi dài,...), cho phép nó để bổ sung chế độ ăn uống với con mồi đa dạng hơn. Con mồi dao động về kích thước từ côn trùng với cá sấu con cho tới gia súc lớn bị săn bởi con trưởng thành, và có thể bao gồm nhiều loài chim, động vật có vú, rùa, cua, ốc, ếch, và đôi khi cả xác thối.[20] Thức ăn của cá sấu mũi dài trưởng thành chủ yếu là chim, dơi, bò sát, cá và động vật lưỡng cư. Cá sấu Cuba thì gồm Cá nhỏ, động vật chân đốt nước ngọt, và động vật giáp xác là thức ăn của cá sấu non. Con trưởng thành ăn động vật có vú nhỏ, cá và rùa.

Rồng Komodo là loài ăn thịt vô cùng hung dữ, là loài săn mồi vô cùng kinh hoàng với bộ máy tiêu hóa cực mạnh. Chúng có thể xơi một lúc lượng thịt bằng 80% trọng lượng cơ thể, nghĩa là, một con rồng nặng 100 kg có thể ăn 80 kg thịt sống. Chúng ăn cả xương kể cả xương động vật lớn như trâu.

Của loài

Con mồi ưa thích của cá mập trắng lớn là các loài thú chân màng như hải cẩu, sư tử biển. Ngoài ra chúng còn ăn cá, các loại cá mập nhỏ hơn, cá voi, cá heo, rùa và xác động vật chết trôi nổi trên biển. Cá mập trắng lớn ăn thịt và ăn (ví dụ cá ngừ, cá đuối, các loài cá mập khác), bộ Cá voi(ví dụ, cá heo, cá heo chuột, cá voi nhỏ), động vật chân màngs (ví dụ hải cẩu, hải cẩu lông, và sư tử biển), rùa biển, rái cá biển (Enhydra lutris) và biển biển. Cá mập trắng không ăn các thứ chúng không thể tiêu hóa. Khi đạt chiều dài gần 4 mét (13 ft), lớn bắt đầu chuyển qua săn chủ yếu động vật có vú biển. Chúng thường săn ngay khi có cơ hội. Chúng thích săn con mồi có nhiều chất béo giàu năng lượng.

Thức ăn của cá mập búa bao gồm cá, mực, bạch tuộc, động vật giáp xác, và thậm chí là các loài cá thuộc họ hàng của chúng như Cá đuối gai độc, Cá mập đầu búa lớn. Loài này ăn tạp bao gồm tất cả mực, bạch tuộc và có thể ăn thịt đồng loại (các con cá mập đầu búa khác và cả con của chính chúng). Thức ăn chủ yếu của cá mập thằn lằn bao gồm các động vật thân mềm bao gồm cả mực, các loài cá nhiều xương (Osteichthyes) và kể cả các loài cá mập nhỏ hơn. Ở vùng biển Chōshi, một con cá mập thằn lằn dài 1,6 m đã nuốt một con cá mập mèo Nhật Bản (Apristurus japonicus) nặng 590 g (1,3 lb). Cá hổ kình linh hoạt, nhanh nhẹn và là một loài động vật ăn thịt cơ hội, một số ăn cá, một số săn các loài thú biển như sư tử biển, hải cẩu, cá voi và cả loài cá mập trắng lớn cũng là nạn nhân của nó, Chúng có thể ăn những con cá nhỏ, nhưng cũng có thể ăn những con cá voi khác như cá voi lưng xám con.

Thức ăn của Bộ Cá nhám dẹt bao gồm cá, động vật giáp xác, các loài động vật thân mềm. Các loài cá nhám voi ăn các loại sinh vật phù du, tảo lớn, nhuyễn thể hay các loại mực và động vật có xương sống nhỏ, cá nhám voi là loài tích cực săn mồi và chúng phát hiện các mục tiêu như các chỗ có nhiều sinh vật phù du hay cá nhờ các tín hiệu khứu giác. 90% thức ăn của cá chó là những con cá có kích thước nhỏ, nhưng cá chó cũng bắt ăn thêm bất cứ động vật sống nào mà hàm của chúng chộp được. Cá chó ăn cả côn trùng, rắn, vịt con, ếch nhái, tôm, chim nước, loài gặm nhấm và nhiều loại thú có vú nhỏ khác. Kích thước thức ăn vừa miệng nhất của cá chó là từ 1/3 đến 1/2 kích thước cơ thể chúng. Cá chó lớn cũng thích ăn thịt cả những con cá chó nhỏ hơn. Những con cá chó to (thường là cá mái) còn ăn cả cá chết, cá sắp chết hay cá bệnh.

Của cây ăn thịt

Hầu hết các cây ăn thịt có chọn lọc con mồi cụ thể. Lựa chọn này là do con mồi có sẵn và các loại bẫy được sử dụng bởi sinh vật. Với bắt ruồi Venus, con mồi được giới hạn là bọ cánh cứng, nhện và động vật chân đốt bò khác. Trong thực tế, chế độ ăn uống của Dionaea là 33% kiến, 30% nhện, bọ cánh cứng 10%, và 10% châu chấu, có ít hơn 5% các loài côn trùng bay.[4]Dionaea phát triển từ một hình thức tổ tiên của Drosera (cây ăn thịt có sử dụng một cái bẫy dính thay vì một cái bẫy chụp) lý do phân nhánh tiến hóa này trở nên rõ ràng. Trong khi Drosera tiêu thụ côn trùng nhỏ trên không, Dionaea tiêu thụ côn trùng lớn hơn trên mặt đất. Từ những con bọ lớn hơn này, Dionaea có thể trích xuất nhiều chất dinh dưỡng. Điều này cho phép Dionaea một lợi thế tiến hóa hơn hình thức bẫy dính tổ tiên của chúng.

Khác

Giống như các loài cá voi khác, thức ăn của Cá voi xanh chủ yếu là sinh vật phù du và giáp xác nhỏ, sinh vật phù du (nhuyễn thể), các loài tôm, tép tí hon; một vài loài cá nhỏ và phân hải cẩu.

Một con gấu nâu đang ăn thịt cá hồi

Trong tự nhiên, thịt cá hồi cũng thu hút rất nhiều động vật ăn thịt. Các cuộc di cư 01 lần trong đời của cá hồi thu hút nhiều loài động vật ăn thịt đến những địa điểm nhất định để chờ những bữa đại tiệc của tự nhiên và nhiều năm mới có một lần. Trong nhiều loài đó thì có gấu xám Bắc Mỹ và loài sói xám miền Tây Canada. Ở Tây bắc Thái Bình Dương và Alaska, cá hồi là loài quan trọng, hỗ trợ các dạng sống hoang dã từ chim tới gấu và rái cá.[21] Cơ thể cá hồi đại diện cho sự chuyển tiếp các chất dinh dưỡng từ biển, giàu nitơ, sulfur, carbon và phốt pho, về hệ sinh thái rừng.

Gấu xám Bắc Mỹ hoạt động như những kỹ sư sinh thái, bắt cá hồi và mang chúng tới các vùng cây lân cận. Tại đó chúng thải nước tiểu và phân giàu dinh dưỡng và xác bị ăn dở. Đã có ước tính rằng những con gấu để lại tới nửa số cá hồi chúng bắt được trên nền rừng[22][23] với mật độ có thể lên đến 4,000 kilograms trên 1 hectare,[24] cung cấp tới 24% tổng lượng nitơ có được cho các khu rừng ven sông.[25] Những cây vân sam lên tới 500 m (1.600 ft) từ một dòng suối nơi gấu xám Bắc Mỹ bắt cá hồi đã được phát hiện có chứa nitơ có nguồn gốc từ cá hồi bị bắt.[25]

Chó sói ở miền Tây Canada lại thích bắt cá hồi hơn là săn bắt hươu hay các động vật khác. Hươu là thức ăn chính của loài sói vào mùa xuân và hè. Tuy nhiên, đến mùa thu, thời điểm cá hồi ở Thái Bình Dương đổ về các con sông trong vùng sinh sản thì họ nhà sói thích đánh bắt cá. việc lựa chọn con mồi là cá hồi do an toàn. Sói thường bị thương nặng, có thể dẫn đến bỏ mạng trong khi săn hươu. Nhưng việc bắt cá hồi mang lại cho sói nhiều lợi ích như an toàn, dễ bắt, ít tốn thời gian như khi theo dõi hươu trong rừng. Ngoài ra, so với thịt hươu, thịt cá hồi giàu chất dinh dưỡng hơn, đặc biệt là chất béo và năng lượng.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Con_mồi http://www.flmnh.ufl.edu/cnhc/csp_cacu.htm http://people.wcsu.edu/pinout/herpetology/cacutus/... http://myweb.wwu.edu/~helfiej/publications_pdfs/He... http://vnexpress.net/gl/khoa-hoc/2010/12/3ba24d33/ http://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/nghe-thuat-a... http://vnexpress.net/tin-tuc/phap-luat/vo-va-cham-... //dx.doi.org/10.1007%2Fs10021-004-0063-5 http://www.jstor.org/pss/5647 http://baodatviet.vn/khoa-hoc-cong-nghe/the-gioi-q... http://www.baodatviet.vn/khoa-hoc-cong-nghe/the-gi...